Pháp luật Việt Nam cho phép việc uỷ quyền chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng QSD đất. Do vậy vợ anh có thể uỷ quyền cho anh tiến hành việc mua bán đất đai.
Theo khoản 1, Điều 27, Luật Hôn nhân & Gia đình thì: “Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản
chung của vợ chồng”, việc ghi tên một người hay cả hai vợ chồng trên
giấy chứng nhận QSD đất không làm ảnh hưởng đến quyền sở hữu chung. Vì
vậy, khi anh tiến hành mua lô đất trên, mặc nhiên lô đất sẽ là tài sản
chung của vợ chồng anh ngay cả khi một mình anh tham gia vào giao dịch
đó (nếu vợ chồng anh không có thoả thuận khác). Pháp luật Việt Nam cho phép việc uỷ quyền chuyển nhượng và nhận chuyển
nhượng QSD đất. Do vậy vợ anh có thể uỷ quyền cho anh tiến hành việc
mua bán đất đai. Căn cứ vào khoản 1, Điều 65 Luật Công chứng về thẩm quyền công chứng
các hợp đồng, giao dịch của Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài; Cụ
thể trong trường hợp này, vợ anh có quyền lập đề nghị Cơ quan đại diện
Việt Nam ở nước ngoài (nơi chị đang công tác) tiến hành thủ tục lập giấy
uỷ quyền cho anh để anh có thể thực hiện thủ tục nhận chuyển nhượng QSD
đất nói trên.